Tiến sĩ Trần Du lịch: "Kinh tế Việt Nam năm 2014 bắt đầu giai đoạn phục hồi"

KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2014: BẮT ĐẦU GIAI ĐOẠN PHỤC HỒI.
TS TRẦN DU LỊCH

                        (Phó trưởng Đoàn ĐBQH.TP.HCM; uỷ viên Uỷ ban kinh tế Quốc hội)
Theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội thảo,tham luận của tôi cần đề cập đến một số khía cạnh của  kinh tế vĩ mô, những chính sách kinh tế Chính phủ đang thực thi, bối cảnh kinh tế thế giới trong năm 2014 để qua đó có cái nhìn thực tế tình hình kinh tế Việt Nam trong năm 2014-2015. Với tầm nhìn chủ quan của mình, tôi cho rằng  trong năm 2014 kinh tế Việt Nam bắt đầu giai đoạn phục hồi, mặc dù đang đối diện với những khó khăn thách thức cả ngắn hạn lẫn dài hạn. Bài tham luận này nhằm lý giải cho nhận định đó.

              

       Kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn bất ổn vĩ mô?

      1.Thật vậy, từ đẩu năm 2008 đến 2013, trong suốt 6 năm kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng bất ổn vĩ mô, nên hầu hết các chính sách  và giải pháp kinh tế -tài chính đều mang tình chất tình thế, nhằm xử lý nguy cơ bất ổn kinh tế vĩ mô, mà tập trung nhất là chống lạm phát.Sự thay đổi chính sách liên tục ( lúc thắt chặc, lúc nới lỏng ) đã làm cho thị trường mất phương hướng dài hạn. Không phủ nhận sự tác động tiêu cực từ thị trường thế giới, nhưng nguyên nhân sâu xa vẫn là sự bất cập của cơ cấu kinh tế và tác động tính hai mặt của các giải pháp về tái khóa và tiền tệ. Tù năm 2012, sức mua chung của nền kinh tế suy giảm tạo nên vòng lẫn quẩn : sức mua giảm- tồn kho tăng- sản xuất giảm- nợ xấu tăng- tín dụng giảm…

      2.Trở lại thời điểm đầu năm 2011,tại  Đại hội XI của Đảng, thông qua kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế-xã hội 2011-2015 và Chiến lược 10 năm phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 cho thấy, ngay trong năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 2011-2015 và cũng ngay sau Đại hội XI của Đảng ,do nguy cơ tái lạm phát cao và chịu tác động bất lợi của tình hình kinh tế thế giới, nên  thay vì theo đuổi mục tiêu tăng trưởng, chính sách kinh tế  đã chuyển hướng sang mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.Chính phủ đã ban hành ngay Nghị quyết 11/CP ( tháng 3. 2011) thực hiện chính sách tài khoá thắt chặc và chính sách tiền tệ chặt chẽ ( nhưng thực chất vẫn là thắt chặc) nhằm giảm giảm tổng cầu kinh tế.Ở thời điểm này người ta nói nhiều đến vấn đề hy sinh tăng trưởng để ồn định vĩ mô, mà “bóng ma” lạm phát cao luôn luôn ám ảnh chi phối các chính sách kinh tế-tài chính.

        Tuy từng thời điểm có sự linh hoạt nhất định, nhưng về cơ bản trong 3 năm 2011-2013, chính sách tài khoá và tiền tệ đều nhằm vào mục tiêu kiềm chế lạm phát.Hệ quả tất yếu của  các chính sách trên đã làm nền kinh tế tăng trưởng chậm lại : GDP năm 2011 tăng 6,24%; năm 2012 tăng : 5,25% và năm 2013 tăng : 5,4%, bình quân 3 năm 2011-2013 tăng 5,6% .Kết quả trên khá thấp so với mục tiêu Đại hội XI đề ra là bình quân 7-7,5%/ năm và cũng thấp hơn mức điều chỉnh theo theo Nghị quyết của Quốc hội  là 6,5-7%/ năm.( Tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2006-2010 là 7%/năm).Với tình hình thực tế hiện nay và theo Nghị quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội đề ra mục tiêu tăng GDP năm 2014 là 5,8% và năm 2015 là 6% thì mức tăng GDP bình quân mỗi năm  của cả 5 năm 2011-2015 cũng chỉ ở mức dưới 6%.Có thể nói giai đoạn 2011-2013 là thời kỳ nền kinh tế rơi vào trì trệ, tăng trưởng dưới tiềm năng và mục tiêu quan trọng nhất của chính sách kinh tế là ổn định vĩ mô, khắc phục tình trạng bất ổn dài nhất trong suốt 20 năm qua.

        3.Trong 2 năm 2012- 2013, với hệ quả của các biện pháp giảm tổng cầu  đã tác động kiềm hãm sức mua của thị trường và tốc độ tăng trưởng kinh tế.Số lượng doanh nghiệp ngưng hoạt động, phá sản, giải thể có xu hướng tăng nhanh từ đầu năm 2012 và kéo dài sang năm 2013 .  Nên trong suốt năm 2013, nền kinh tế vẫn đối diện với  4 thách thức : (1) nguy cơ tái lạm phát cao kèm theo sự trì trệ của thị trường  đã thu hẹp “dư địa” của các chính sách tài khóa và tiền tệ;(2) tình hình nợ xấu chưa được cải thiện nên dòng tín dụng vẫn bị tắt nghẽn, nền kinh tế không hấp thụ được vốn.Tình trạng thừa tiền thiếu vốn còn kéo dài. Khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp vẫn còn khó khăn, nhất là DNV&N; (3) do lạm phát kỳ vọng cả năm là 7%, nên  việc kéo giảm lãi suất tiết kiệm tiển gửi bị hạn chế và  lãi suất cho vay dù đã kéo giảm nhiều lần, nhưng vẫn còn khá cao, đặc biệt là lãi suất vay  trung-dài hạn, nên  không kích thích được các DN đang có thị trường mở rộng đầu tư và vẫn là nguy cơ  làm tăng nợ xấu  đối với những DN đang nổ lực phục hồi sản xuất;(4) những nổ lực để làm ấm thị trường bất động sản chưa  mang lại nhiều kết quả, nên thanh khoản của thị trường này ít được cải thiện. .

        4.Trong bối cảnh như vậy, đến thời điểm này ( tháng 02.2014)  có thể nói, những khó khăn nêu trên đã được cải thiện phần nào : GDP năm 2013  tăng 5,4%; lạm phát được kiềm chề và CPI chỉ  tăng 6,02% so với tháng 12.2012; tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14,4% ( kế hoạch trên 10%), nhập siêu chỉ còn khoảng  0,4 tỷ USD; hàng tồn kho ngành công nghiệp chế biến chỉ tăng 9,4% so với mức tăng 21,5% cùng kỳ năm 2012; số  doanh nghiệp trong nước tạm  ngưng hoạt động  đã quay lại hoạt động gần 11.800  doanh nghiệp.Đặc biệt khu vực FDI vẫn giữ được tốc độ tăng trưởng.Vốn đăng ký đạt 20,8 tỷ USD, tăng 54% so với cùng kỳ năm trước; vốn thực hiện đạt gần 10 tỷ USD trong năm 2012; .thanh khoản ngân hàng thương mại có sự ổn định hơn so với các năm trước; thị trường tài chình, thị trường bất động sản tuy chưa khởi sắc, nhưng đang diễn biến theo chiểu hướng tích cực .... Thành quả nổi bật là kinh tế vĩ mô ổn định hơn, lạm phát được kiểm soát, lãi suất giảm, tỷ giá ổn định…

    Nhận thức rõ hơn những khó khăn và thách thức phải vượt qua.

        Mặc dù trong năm 2013 nền kinh tế có dấu hiệu phục hồi, nhưng vẫn  đang còn ở trong giai đoạn trì trệ, tăng trưởng dưới tiềm năng và  đang còn phải đối diện với những khó khăn ngắn hạn và  vẫn còn chứa đựng nhiều nguy cơ tiềm ẩn có thể gây mất ổn định trở lại. Lạm phát tuy thấp nhưng có nguyên nhân quan trọng là do tổng cầu của nền kinh tế giảm, giá lương thực,thực phẩm  tăng thấp hơn nhiều so với chỉ số giá cả chung; mất cân đối ngân sách, nợ công gần đến giới hạn cho phép, khối lượng nợ phải trả ngày càng lớn gây áp lực cho ngân sách, ảnh hưởng đến đầu tư. Tăng trưởng tín dụng cả năm  ước đạt khoảng 10%, nên nhiều doanh nghiệp vẫn đang  khó khăn tiếp cận vốn dù lãi suất đã giảm nhiều.Hành trang kinh tế Việt nam bước vào năm 2014 tuy những khó khăn có cải thiện hơn so với đầu năm 2013, nhưng vẫn đang đứng trước nhiều thách thách thức cả ngắn hạn lẫn trung-dài hạn. Để nền kinh tế từ năm 2016 có thể phục hồi tốc độ tăng trưởng của thời kỳ 2001-2010 , thì các chính sách kinh tế trong 2 năm 2014-2015 phải hướng tới mục tiêu khắc phục 3 vấn đề trung- dài hạn đang đặt ra:

       (1) Một nền công nghiệp chủ yếu dựa vào gia công, với lao động rẽ, giá trị gia tăng thấp đã mất sức cạnh tranh khi hội nhập với kinh tế khu vực và toàn cầu. Năm 2012-2013 sự gia tăng xuất khẩu chủ yếu dựa vào khu vực FDI  ( cũ và mới), còn DN trong nước hoàn toàn không có khả năng tăng trưởng xuất khẩu .Trong khi đó giá cả lao động phải tăng liên tục để bù đắp lạm phát và yêu cầu cải thiện đời sống, nên chi phí sản xuất tăng, sức cạnh tranh giảm. Công nghiệp hỗ trợ - yếu tố then chốt để nâng tỷ trọng nội địa hoá trong cơ cấu giá trị sản phẩm, gỉam giá thành- cho đến nay vẫn thiếu chính sách phát triển.Một nền nông nghiệp có nhiều lợi thế, nhưng dựa vào xuất thô với giá trị gia tăng thấp, chưa thực sự đặt vào khuổn khổ cạnh tranh toàn cầu, nên không thể cải thiện được thị trường của 70% dân số sống ở nộng thôn.Xuất khẩu hơn 7 triệu tấn gạo, với doanh thu 3,5 tỷ USD nhưng phải nhập 3,7 tỷ USD nguyên liệu thức ăn gia súc.  Thị trường nông thôn, một thị trường có số lượng người tiêu dùng chiếm gần 70% dân số, nhưng không thể mở rộng với cơ cấu sản xuất nông nghiệp, có giá trị gia tăng thấp như hiện nay.

         (2) Năng suất tổng hợp ( TPF) giảm:  Năng suất tổng hợp là chỉ báo quan trọng thể hiện sự sử dụng các yếu tố sản xuất ( tài nguyên, nhân lực và vốn) có hiệu quả. Sự giảm tuyệt đối năng suất tổng hợp trong việc đóng góp vào tốc độ tăng trưởng GDP trong 10 năm gần đây; đồng thời tăng nhanh yếu tố vốn đã lý giải nguyên nhân nền kinh tế kém cạnh tranh và sự tăng trưởng GDP chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư. Hệ số ICOR tăng cao, gây mất cân đối nghiêm trọng giữa tích luỹ và đầu tư. Đây là nguyên nhân sâu xa của lạm phát.Năng suất và hiệu quả đang là thách thức lớn nhất đối với nền kinh tế VN trong quá trình cạnh tranh và hội nhập đang diễn ra;

         (3)tái cơ cấu và chuyển đổi mô hình tăng trưởng đang vướng mắc về mặt tư duy.Sự vướng mắc làm chậm quá trình tái cơ cấu thể hiện trên 3 mặt (1) chức năng kinh tế của nhà nước trong điều kiện vận hành của cơ chế thị trường: sự lẫn lộn giữa nhà nước và thị trường.; (2) hạn chế trong việc sử dụng các công cụ điều tiết thị trường của Nhà nước : vai trò dẫn dắt và hỗ trợ  thị trường của thể chế kinh tế và hành chính công; (3) sự phân bố nguồn lực kém hiệu quả : đầu tư công , doanh nghiệp nhà nước, bất động sản…

         Với 3 vấn đề nêu trên, nhưng xét cho cùng khâu đột phá và sự trông đợi niềm tin của thị trường vẫn là khâu thể chế kinh tế, cần có sự đột phá theo tinh thần Nghị quyết XI của Đảng và đặc biệt là sự quyết tâm thực hiện như nội dung thông điệp đầu năm của Thủ tướng. Thực hiện Hiến chương ASEAN mở cửa thị trường đến gần; nộ lực đàm phán ký kết TPP, thực hiện đầy đủ lộ trình của WTO  đã ký kết, các Hiệp định thương mại tự do song phương… mở ra nhiều cơ hội cho nền kinh tế nước ta phát triền nhanh trong các trong năm tới, nếu chúng ta vượt qua được những thách thức từ chính nội tại của nền kinh tế.

   Năm 2014-2015:Kỳ vọng chuyển sang giai đoạn phục hồi.

       1. Theo dự báo của IMF và của OECD kinh tế thế giới có xu hướng phục hồi.Dự báo kinh tế thế giới năm 2014 sẽ tăng 3,6% và  3,9 % năm 2015( năm 2013 tăng 2,9%). WTO dự báo thướng mại thế giới năm 2014 tăng 4% so với mức tăng 2,5% trong năm 2013.Dòng đầu tư FDI năm 2014 cũng  sẽ tăng so với năm 2013, dự kiến đạt 1600 tỷ USD ( năm 2013 đạt 1400 tỷ USD) và dòng FDI có xu hướng chuyển dịch giữa các Chấu lục. Giá cả thế giới trong năm 2014 cũng sẽ  có xu hướng giảm, đặc biệt giá lương thực sẽ giảm mạnh hơn. Dự báo bức tranh kinh tế thế giới trong 2 năm 2014-2015 cho thấy, kinh tế Việt nam vừa có cơ hội, nhưng cũng vửa đứng trước những thách thức, nhất là lĩnh vực xuất khẩu nông sản.

      2.Nghị quyết kỳ họp thứ 6 Quốc hội ( khoá XIII) đã xác định mục tiêu kinh tế tổng quát của năm 2014 là “ Tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả,sức cạnh tranh của nền kinh tế trên cơ sở đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế. Bảo đảm an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, cải thiện đời sống nhân dân”. Cụ thể  trong năm 2014 GDP tăng 5,8% và dự kiến 6% trong năm 2015. Kiểm soát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) khoảng 7% trong giai đoạn 2014-2015 và sẽ kéo giảm dần trong các năm tiếp theo.Sự thay đổi chính sách từ sự kiềm chế lạm phát bị động sang lạm phát mục tiêu sẽ tạo dư địa cho việc thực thi chính sách tài khoá và tiền tệ trong 2 năm 2014-2015; trong đó có sự tăng công chi qua tăng mức phát hành trái phiếu Chính phủ và tăng mức dư nợ tín dụng, giảm lãi suất.

       3.Bên cạnh những nổ lực của Chính phủ trong việc cải cách thể chế, đẩy mạnh mục tiêu tái cơ cấu 3 lĩnh vực ưu tiên : đầu tư công; hệ thống ngân hàng thương mại và Doanh nghiệp nhà nước; các giải pháp điều hành của Chính phủ trong năm 2014, thông qua Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 02.01.2014, đều hướng vào mục tiêu phục hồi khu vực kinh tế trong nước; giải quyết đồng bộ 4 vấn đề : sức mua của thị trường; xử lý nợ xấu của hệ thống NHTM gắn với chính sách tiền tệ linh hoạt; làm ấm thị trường bất động sản và hỗ trợ sự phục hồi tăng trưởng của 5 lĩnh vực kinh tế ưu tiên trong nước ( nông nghiệp; sản xuất hàng xuất khẩu; doanh nghiệp vừa và nhỏ; công nghiệp hỗ trợ và sản phẩm công nghiệ cao). Sự đứng vững và phát triển không ngừng của khu vực FDI trước những biến động kinh tế vĩ mô trong 3 năm qua cho thấy, sự phát triển thiếu bền vững của khu vực kinh tế trong nước và chắc chắn tử thực tiễn của tình hình 3 năm qua sẽ rút ra được nhiều bài học để khắc phục những hạn chế yếu kém trong các năm tới.

   Tóm lại, trong 2 năm 2014-2015 có nhiều nhân tố để tin rằng nên kinh tế Việt nam sẽ phục hồi dần tốc độ tăng trưởng, niềm tin của thị trường được củng cố và doanh nghiệp có triển vọng để phát triển bền vững hơn. Tất cả những điều này đặt vào kỳ vọng những nổ lực của Chính phủ trong việc đổi mới mạnh mẽ  thể chế, hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm sự vận hành của cơ chế thị trường và sự lành mạnh trong cạnh tranh như thông điệp đầu năm của Thủ tướng Chính phủ. Chúng ta hy vọng.
Đăng nhập
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 36
  • Trong tuần: 522
  • Tất cả: 194,234